Xã hội và văn hóa Đế_quốc_Parthia

Văn hóa Hy Lạp và sự hồi sinh của văn hóa Iran

Người cưỡi ngựa,bây giờ được trưng bày tại Palazzo Madama, Turino.

Mặc dù nền văn hóa Hy Lạp của nhà Seleukos được chấp nhận rộng rãi bởi các dân tộc vùng Cận Đông trong thời kỳ Hy Lạp hóa, thời kì Parthia đã chứng kiến một sự hồi sinh của văn hóa Iran trong tôn giáo, nghệ thuật, và thậm chí cả trang phục quần áo [215] Ý thức được cả nguồn gốc Hy Lạp và Ba Tư trong vương quyền của họ, những vị vua Arsaces đi phong cách theo kiểu vua của các vị vua Ba Tư và khẳng định rằng họ cũng là philhellene ("bạn bè của người Hy Lạp") [216] từ "philhellene" được ghi trên đồng tiền Parthia cho đến triều đại của Artabanus II[217] ngưng sử dụng cụm từ này để biểu thị sự hồi sinh của nền văn hóa Iran của Parthia.[218] Vologeses I là vị vua Arsaces đầu tiên sử dụng chữ viết và ngôn ngữ Parthia xuất hiện trên đồng tiền đúc song song với tiếng Hy Lạp [219] Tuy nhiên, việc sử dụng những chữ cái Hy Lạp khắc trên tiền xu Parthia vẫn còn cho đến khi đế quốc sụp đổ.[220]

Một vòi nước Parthia gốm trong hình dạng đầu của một người đàn ông, khoảng thế kỷ I hoặc II CN

Tuy nhiên, ảnh hưởng văn hóa Hy Lạp đã không biến mất khỏi Đế chế Parthia, và có bằng chứng rằng nhà Arsaces đã yêu thích những nhà hát Hy Lạp. Khi đầu của Crassus đã được đem dâng cho Orodes II, ông ta cùng vua Armenia,Artavasdes II, lúc này đang bận xem một vở kịch thầy tế của thần Dionysius(vở kịch Bacchae) của nhà soạn kịch Euripides (khoảng 480-406 TCN). Người phụ trách của vở kịch đã quyết định sử dụng đầu thực của Crassus thay cho cái đầu giả của Pentheus [221]

Trên các đồng tiền của mình, vua Arsaces I được mô tả mặc y phục tương tự như phó vương nhà Achaemenes. Theo A. Shahbazi, Arsaces "cố ý tách biệt khỏi tiền xu nhà Seleukos để đề cao tinh thần dân tộc dân tộc và khát vọng hoàng gia của ông, và ông gọi mình là Kārny / Karny (tiếng Hy Lạp: Autocratos), một tước hiệu đã được dùng bởi những vị tướng Achaemenes tối cao, chẳng hạn như Cyrus trẻ" [222] phù hợp với truyền thống Achaemenes, những phù điêu khắc hình ảnh các vị vua Arsaces đã được khắc tại núi Behistun, nơi mà Darius I của Ba Tư (cai trị: 522-486 TCN)khắc lên đó văn bia của hoàng gia.[223] Hơn nữa, nhà Arsaces tuyên bố nguồn gốc gia đình từ vua Artaxerxes II của Ba Tư (cai trị: 404-358 TCN) như một phương tiện để củng cố tính hợp pháp của họ trong việc cai trị vùng lãnh thổ cũ của nhà Achaemenes, ví dụ như là "người kế vị hợp pháp của các vị vua vinh quang" của Iran cổ[224] Vua Artabanus III đặt tên một trong các hoàng nam của ông là Darius và xưng làm người thừa kế của Cyrus Đại Đế.[222] Các vua nhà Arsaces chọn cho mình những cái tên điển hình của Bái Hỏa giáo, và vài tên trong số đó lấy từ "khởi thủy hào hùng" của thánh kinh Avesta, theo nhà sử học V.G. Lukonin.[225]

Người Parthia cũng đã chấp nhận việc sử dụng lịch Babylon với những cái tên từ lịch Iran nhà Achaemenes, thay thế lịch Macedonia của nhà Seleukos.[226]

Tôn giáo

Một hình chạm khắc dùng cho việc thờ cúng từ tỉnh Khūzestān, Iran, thế kỷ II CN

Ngay bên trong Đế chế Parthia, tồn tại tình trạng không đồng nhất về văn hóa và chính trị, có một loạt các hệ thống tôn giáo và niềm tin, phổ biến nhất là sự thờ cúng các vị thần của người Hy Lạp và Iran.[227] Ngoài ra còn có một số người Do Thái [228] và tín hữu Kitô giáo,[229] và hầu hết người Parthia theo đa thần giáo[230] Các vị thần Hy Lạp và Iran đôi khi được pha trộn với nhau thành một. Ví dụ, Zeus thường đánh đồng với Ahura Mazda, Hades với Angra Mainyu, AphroditeHera với Anahita, Apollo với Mithra, và Hermes với Shamash [231] Ngoài các vị nam thần và nữ thần chính, mỗi nhóm dân tộc và thành phố đã có riêng của mình những vị thần nhất định[230] Cũng như các vị vua triều Seleukos,[232] các công trình nghệ thuật Parthia cho thấy rằng các vị vua nhà Arsaces được tôn thờ làm Thần vương, và sự sùng bái các vị vua này có lẽ phổ biến nhất [233]

Mức độ tôn sùng của nhà Arsaces với Bái Hỏa giáo đã được tranh luận trong học thuật hiện đại.[234] Những tín đồ Zoroaster đã coi sự hiến tế đẫm máu của một số tôn giáo thời Parthia của Iran là không thể chấp nhận được[227] Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy vua Vologeses I khuyến khích sự hiện diện của pháp sư ma thuật Bái hỏa giáo tại Triều đìnhvà tài trợ biên soạn các văn bản Bái hỏa giáo thiêng liêng mà sau đó hình thành kinh Avesta [235] Triều đình Sassanid sau này sẽ tôn Bái hỏa giáo thành quốc giáo của đế quốc.[236]

Cho dù vị tiên tri sáng lập Minh giáoMani (216276) không hề tuyên bố sự khải huyền tôn giáo đầu tiên của ông cho tới khoảng năm 228/229, Bivar khẳng định rằng đức tin mới của ông gồm thâu "những yếu tố của đức tin Mandae, thuyết nguồn gốc vũ trụ của người Iran, và thậm chí cả những tiếng vang của Ki-tô giáo...[Minh giáo] có thể được coi là một phản ánh điển hình của những học thuyết tôn giáo hỗn hợp vào cuối triều Arsaces, cái mà quốc đạo Bái Hỏa của triều Sassanid sớm quét sạch hết."[237]

Có rất it bằng chứng khảo cố cho thấy sự truyền bá đạo Phật từ Đế quốc Quý Sương vào lãnh thổ Iran.[238] Tuy vậy, theo các thư tịch cổ Trung Quốc, một quý tộc Parthia kiêm tăng lữ Phật giáo là An Thế Cao (An Shigao) (s. sống vào thế kỷ thứ II), đến Lạc Dương (Trung Quốc) để truyền bá Phật giáo và dịch vài cuốn kinh Phật sang tiếng Hán.[239]

Nghệ thuật và kiến trúc

Một iwan hình vòm bán trụ tại cổng của di chỉ Hatra, Iraq, xây khoảng năm 50 TCN

Nghệ thuật Parthia có thể được chia thành ba giai đoạn sử - địa: nền nghệ thuật của Parthia cổ, nghệ thuật của cao nguyên Iran, và nghệ thuật của Lưỡng Hà thuộc Parthia [240] Tác phẩm hội họa Parthia chính thống đầu tiên, được tìm thấy tại Mithridatkert/Nisa, kết hợp các yếu tố nghệ thuật Hy Lạp và Iran phù hợp với truyền thống Achaemenes và Seleukos[240] trong giai đoạn thứ hai, nghệ thuật Parthia tìm thấy cảm hứng theo phong cách nghệ thuật đời Achaemenes, như được minh chứng bằng bức phù điêu của vua Mithridates II tại núi Behistun.[241] Giai đoạn thứ ba xảy ra dần dần sau khi người Parthia chinh phục Lưỡng Hà [241].

Những chủ đề chung của thời kỳ Parthia bao gồm cảnh những cuộc săn bắn của Hoàng gia và sự lên ngôi của các vua nhà Arsaces.[242] Những chủ đề mở rộng khác bao gồm những bức chân dung của những nhà cầm quyền địa phương.[240] Nền nghệ thuật chung của Parthia trong thời ấy luôn gắn bó với tranh khắc trên đá, tranh tường và thậm chí là tranh grafitô.[240] Mộtíp phổ biến thời kỳ Sassanid thể hiện hai chiến binh cưỡi ngựa cầm thương giao chiến với nhau xuất hiện lần đầu tiên trong các phù điêu Parthia tại núi Behistun.[243]

Trong tranh chân dung, người Parthia ủng hộ và nhấn mạnh việc điêu khắc theo mặt trước, có nghĩa là người được miêu tả trong bức tranh, trong tác phẩm điêu khắc, hoặc mặt trước sau của đồng tiền phải đối diện trực tiếp với người xem thay vì hiển thị theo chiều nghiêng.[244] Mặc dù phong cách vẽ điêu khắc theo mặt trước trong chân dung vào giai đoạn này là một kỹ thuật nghệ thuật đã cũ, Daniel Schlumberger giải thích sự đổi mới của vẽ điêu khắc theo mặt trước thời Parthia:[245]

'Điêu khắc mặt trước kiểu Parthia', cũng như bây giờ chúng ta đã quen gọi nó, khác xa cả với kiểu Cận Đông cổ đại và điêu khắc theo mặt trước kiểu Hy Lạp, mặc dù nó là hậu duệ đời sau không cần phải nghi ngờ. Đối với cả nghệ thuật phương Đông và trong nghệ thuật Hy Lạp, điêu khắc theo mặt trước là một điều đặc biệt: trong nghệ thuật phương Đông nó dành riêng cho một số ít các nhân vật được thờ cúng hay trong thần thoại; trong nghệ thuật Hy Lạp nó chỉ được dùng đến vì những lý do nhất định, khi được đối tượng yêu cầu, và, trên toàn bộ, hiếm khi được sử dụng. Với nghệ thuật Parthia, thì ngược lại, nó trở nên bình thường. Cho nên điêu khắc theo mặt trước kiểu Parthia thực sự là gì, nhưng thói quen cho thấy, trong hội họa, tất cả các nhân vật đều được thể hiện rõ nét... Điều đặc biệt này dường như đã bắt đầu trong quá trình thế kỷ thứ I.[245]

Nghệ thuật Parthia, với cách sử dụng nghệ thuật điêu khắc mặt trước riêng biệt trong cách vẽ chân dung, đã bị mất và bị bỏ rơi sau những thay đổi về văn hóa cũng như chính trị sâu sắc do đế chế Sassanid mang lại.[246] Tuy nhiên, ngay sau khi người La Mã chiếm đóng vùng Dura-Europos năm 165, việc sử dụng nghệ thuật điêu khắc mặt trước của Parthia trong các bức chân dung tiếp tục phát triển ở đó. Điều này được minh chứng qua những tranh treo tường ở đầu thế kỷ III trong một giáo đường ở Dura-Europos, một ngôi đền trong cùng một thành phố dành riêng cho vị thần Palmyrene và từ một Mithraeum trong khu vực.[247]

Một bức tranh tường vẽ cảnh từ sách Étte trong Kinh Thánh tại giáo đường Do Thái Dura-Europose, niên đại 245 CN, một tác phẩm mà các nhà ngiên cứu như Curtis[248] hay Schlumberger[249] mô tả như là một ví dụ điển hình về "nghệ thuật điêu khắc mặt trước Parthia"

Nghệ thuật kiến trúc Parthia chấp nhận các yếu tố của kiến trúc Achaemenes và Hy Lạp, nhưng vẫn khác biệt với cả hai. Phong cách này lần đầu tiên được chứng thực tại Mithridatkert /Nisa.[250] Đại sảnh tròn của Nisa thì tương tự như cung điện Hy Lạp cổ đại, nhưng khác nhau ở chỗ nó tạo thành một vòng tròn và khung vòm trong một không gian vuông [250] Tuy nhiên, các tác phẩm nghệ thuật của Nisa, bao gồm cả bức tượng bằng đá cẩm thạch và những cảnh tượng khắc trên rhyton bằng ngà voi, thì không còn nghi ngờ gì nữa là chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp.[251]

Một đặc điểm nổi bật của nền kiến trúc Parthia là iwan, một loại sảnh (khán phòng) được đỡ bởi những khung vòm hình vòng cung hoặc hình trụ và hở ở một bên.[252] Sử dụng khung vòm hình trụ thay cho việc sử dụng các cột trụ mang phong cách Hy Lạp để đỡ mái nhà.[241] Mặc dù Iwan đã được biết đến từ thời kỳ Achaemenes và thậm chí là sớm hơn nữa trong các cấu trúc nhỏ hơn và dưới lòng đất, nhưng những người Parthia mới là những người đầu tiên xây dựng chúng ở quy mô khổng lồ. Những iwan sớm nhất được tìm thấy của người Parthia được phát hiện tại Seleucia, có niên đại vào đầu thế kỷ thứ nhất của Công Nguyên. Nhiều iwan đồ sộ cũng được tìm thấy trong những ngôi đền cổ ở Hatra và có lẽ được làm theo phong cách Parthia.[253] Những iwan của Parthia lớn nhất ở khu vực đó có độ dài của một nhịp khoảng 15 m (50 ft).[254]

Trang phục

Bức tượng một người Palmyra trẻ đang mặc quần Parthia, được phát hiện từ một điểm khảo cổ ở Palmyra, có niên đại từ đầu thế kỷ III TCN

Trang phục cưỡi ngựa điển hình của người Parthia được minh họa qua bức tượng đồng nổi tiếng của một nhà quý tộc Parthia được tìm thấy tại Shami, Elymais. Có chiều cao 1.9 m (6 ft), nhân vật này mặc một áo có cổ hình chữ V, áo hình chữ V được buộc chặt lại với nhau nhờ một vành đai, quần rộng và có nhiều uốn nếp, được giữ chặt bởi nịt tất, ngoài ra người đàn ông còn đội một mũ miện hoặc dải buộc trên tóc mình, tạo nên một búi tóc.[255] Trang phục của người đàn ông trên thường được nhìn thấy ở những hình chạm khắc trên những đồng tiền Parthia có niên đại từ giữa thế kỷ I TCN.[218]

Những ví dụ về trang phục còn có thể kể đến là các tác phẩm điêu khắc mang cảm hứng từ phong cách Parthia đã được tìm thấy trong cuộc khai quật tại Hatra, tây bắc Iraq. Tượng được khai quật mang trang phục Parthia điển hình (qamis), kết hợp với quần và được làm từ vật liệu trang trí có chất lượng tốt.[256] Các tầng lớp quý tộc ở Hatra bắt chước kiểu búi tóc, mũ và áo thắt ngang lưng của giới quý tộc ở trong triều đình Arsaces.[253] Những trang phục này thậm chí còn được các vị vua nhà Arsaces mặc, như những gì được thể hiện trên hình chạm khắc ở mặt sau của đồng tiền.[257] Quần kiểu Parthia cũng được tiếp nhận ở Palmyra, Syria, song song cùng với việc sử dụng phong cách điêu khắc theo mặt trước của Parthia trong nghệ thuật.[258]

Nhiều tác phẩm điêu khắc Parthia khác còn miêu tả phụ nữ giàu có mặc áo dài tay trên cùng một chiếc váy, với dây chuyền, bông tai, vòng đeo tay và mũ được trang trí bằng trang sức.[259] Trang phục uốn nếp của họ được thắt chặt bởi một chiếc trâm ở một bên vai.[253] Mũ của họ cũng một đặc trưng riêng đó là một tấm màn ở phía sau.[253]

Như đã thấy trên những đồng tiền đúc Parthia, mũ đội của các vị vua Parthia cũng đã thay đổi nhiều theo thời gian. Những đồng tiền Arsaces sớm nhất cho thấy nhà cầm quyền đội mũ bashlyk (tiếng Hy Lạp: kyrbasia), tức là một loại mũ mềm với vành má.[260] Kiểu mũ này có thể bắt nguồn từ loại mũ của các tổng trấn Achaemenes và những chiếc mũ nhọn được miêu tả trên các bức phù điêu thời Achaemenes tại BehistunPersepolis[261]. Những đồng tiền đầu tiên của Mithridates I cho thấy ông ta đội mũ mềm, nhưng những đồng tiền xuất hiện từ cuối triều đại của ông cho thấy ông lần đầu tiên đội vương miện hoàng gia Hy Lạp.[262] Mithridates II là người đầu tiên được một tả là đội vương miện kiểu Parthia, thêu ngọc trai và đồ trang sức, một loại mũ thường được vua chúa đội trong thời kỳ Hậu-Parthia và Sassanid.[263]

Ngôn ngữ

Người Parthia tỏ ra khoan dung với văn hóa và tôn giáo, họ đã tiếp nhận tiếng Hy Lạp là ngôn ngữ chính thức của họ,[2] trong khi tiếng Aramaic vẫn là lingua franca trong toàn đế quốc.[2] Những ngôn ngữ Parthia bản địa, Trung Ba Tư và Akkad cũng được sử dụng.

Chữ viết và văn học

Được biết, trong thời kỳ Parthia, những nghệ sĩ cung đình (gōsān) đã diễn những tác phẩm văn học truyền miệng kèm theo âm nhạc. Tuy nhiên, những câu chuyện của họ được đọc theo thể thức thơ, và đã không được ghi chép lại cho đến thời kỳ Sassanid tiếp theo sau đó.[264] Trên thực tế, trong những tác phẩm văn học bằng ngôn ngữ Parthia được biết đến, không có tác phẩm nào còn giữ nguyên dạng ban đầu, kể từ khi nó được ghi chép lại ở các thế kỷ sau.[265] Người ta tin rằng, những câu chuyện như những câu chuyện lãng mạn như Vis và Raminsử thi về triều đại Kayanid là một phần của những tập văn của văn học dân gian từ thời kỳ Parthia, mặc dù chúng được biên soạn khá lâu sau đó.[266] Cho dù văn học Parthia không được ghi chép lại bằng văn bản, có bằng chứng rằng cho rằng, các vị vua Arsaces tiếp nhận và tôn trọng nền văn học Hy Lạp.[267]

Quan hệ giữa tiếng Kurd và Parthia

Xem thêm: Tiếng Kurd

Một số nhà ngôn ngữ học cho rằng tiếng Kurd là phiên bản đương đại của tiếng Parthia. Nó thường được phân loại thuộc về nhóm ngữ hệ Tây Bắc Iran, trong khi một số học giả lại cho rằng nó là sự giao thoa giữa nhóm ngữ hệ Tây Bắc và Tây Nam Iran.[268]Martin van Bruinessen lưu ý rằng "tiếng Kurd mang nặng yếu tố của ngữ hệ Tây Nam Iran", trong khi "tiếng Zaza và Gurani [...] lại thuộc về nhóm phía bắc Iran"[269].Ludwig Paul kết luận rằng tiếng Kurd có vẻ như là một ngôn ngữ có nguồn gốc từ khu vực Tây Bắc Iran[270], nhưng cũng thừa nhận rằng nó có nhiều điểm chung với các ngôn ngữ Tây Nam Iran như tiếng Ba Tư. Giáo sư Gernot Windfuhr lại nhận định rằng tiếng Kurd có nguồn gốc từ tiếng Parthia, dựa trên nền tảng của tiếng Medes.[271]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đế_quốc_Parthia http://www.iranchamber.com/art/articles/art_of_par... http://www.iranchamber.com/history/parthians/parth... http://www.iranchamber.com/history/parthians/parth... http://www.jprasurg.com/article/S1748-6815(10)0052... http://www.jprasurg.com/article/S1748-6815(10)0052... http://www.parthia.com/ http://jwsr.pitt.edu/ojs/index.php/jwsr/article/vi... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/20832372 http://www.persianempire.info/parthia9.htm http://www.phaptangpgvn.net/WEBNCPGTV/NCPGTV_8.htm